nhẫn mỹ xưa hợp kim quân đội USMC
Trên cùng là hột màu đỏ Ruby có bề mặt và đáy mài đa giác hột long lanh khá bắt lửa , bao quanh hột là dòng chữ United Stated Marine (quân đội Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ)
+ bên hông trái là hình ảnh quán rượu năm xưa 1775 nơi đầu tiên thành lập quân đoàn Thủy Quân Lục Chiến
+ bên hông phải là hình ảnh 3 người lính đang cắm cờ IWO JIMA 1945 kỷ niệm đau thương của Trận Iwo Jima (Nhật Bản 1945)
– Lòng nhẫn khắc :
+ hãng sản xuất: Jostens
+ chất liệu hợp kim : Lustrium
– Nhẫn Size 8.3 tức lòng trong lọt lòng đo ngang được 18.3mm. Nhẫn nét nguyên mới, hột đỏ đẹp, mộc triện sâu rất đáng sưu tầm.
Mời các bạn xem hình :
nhẫn hợp kim mỹ thủy quân lục chiến
Đôi nét về Marine Corps :
The United States Marine Corps (USMC) là một chi nhánh của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ chịu trách nhiệm cho việc cung cấp chiến đấu từ biển, bằng cách sử dụng thuyền của Hải quân Mỹ để cung cấp nhanh chóng kết hợp với các lực lượng đặc nhiệm. Mỹ Marine Corps là một trong bốn chi nhánh tại Bộ Quốc phòng Mỹ là một thành viên của các tham mưu trưởng liên quân. Nó là một trong bảy dịch vụ mặc đồng phục của Hoa Kỳ.
Thủy quân lục chiến đã là một thành phần của Bộ Ngoại giao Mỹ Hải quân kể từ năm 1834, làm việc chặt chẽ với các lực lượng hải quân để đào tạo, giao thông vận tải và hậu cần. Các bài viết USMC hoạt động trên đất liền và trên tàu biển tàu chiến đổ bộ trên toàn thế giới, và một số phi đội hàng không chiến thuật của Thủy quân lục chiến, chủ yếu Marine Fighter tấn công phi đội, cũng được nhúng trong Hải quân cánh hàng không vận chuyển và hoạt động từ tàu sân bay năng lượng hạt nhân của Hải quân Mỹ.
Hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến của Continental đã được hình thành vào ngày 10 Tháng 11 năm 1775 tại Philadelphia là một lực lượng bộ binh có khả năng chiến đấu cho độc lập cả trên biển và trên bờ. Vai trò của Quân đoàn đã phát triển lên và phát triển mở rộng đến chiến tranh trên không và kiếm phổ biến tiêu đề như “lực lượng của Mỹ thứ ba không” và “đội quân đất thứ hai”. The Marine Corps đã phân biệt chính nó như là nó đã phục vụ trong phần lớn các cuộc chiến tranh của Mỹ, từ khi thành lập đến thời hiện đại, và đã đạt được sự nổi bật trong thế kỷ 20 – thế kỷ khi lý thuyết và thực tiễn của chiến tranh đổ bộ của nó đã chứng minh lời tiên tri và cuối cùng hình thành nền tảng của chiến dịch Thái Bình Dương trong Thế chiến II.
Vào giữa thế kỷ 20, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã trở thành một nhà lý luận chính và các đệ tử chi phối của chiến tranh đổ bộ. Khả năng của nó để nhanh chóng đáp ứng về thông báo ngắn để viễn chinh khủng hoảng mang lại cho nó một vai trò mạnh mẽ trong việc thực hiện và thực hiện các chính sách đối ngoại của Mỹ. Các USMC có khoảng 194.000 thành viên đang tại ngũ và Thủy quân lục chiến chỉ dưới 40.000 dự trữ như năm 2010. Đây là lực lượng nhỏ nhất của quân đội Mỹ trong Bộ Quốc phòng Mỹ.
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (United States Marine Corps) là mộtquân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm cung cấp lực lượng tiến công từ phía biển,sử dụng phương tiện vận chuyển của Hải quân Hoa Kỳ để nhanh chóng đưa các lực lượng đặc nhiệm vũ trang hổn hợp. Nó là một trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ. Theo cơ cấu lãnh đạo dân sự trong Quân đội Hoa Kỳ thì Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là một thành phần của Bộ Hải quân Hoa Kỳ, thường hoạt động sát cánh bên các lực lượng hải quân Hoa Kỳ cho các mục đích huấn luyện, vận chuyển và tiếp vận. Tuy nhiên, theo cơ cấu lãnh đạo quân sự thì Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là một quân chủng riêng biệt.Đại úy Samuel Nicholas thành lập hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Lục địa vào ngày 10 tháng 11 năm 1775 tại Philadelphia với vai trò như bộ binh hải quân.Kể từ đó, sứ mệnh của Thủy quân lục chiến tiến hóa cùng với chính sách ngoại giao và học thuyết quân sự biến đổi của Hoa Kỳ. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã phục vụ trong mọi cuộc xung đột quân sự của Mỹ và được nổi bật trong thế kỷ 20 khi các lý thuyết và thực tiễn của chiến tranh đổ bộ từ biển cho thấy kết quả khả quan và sau hết đã tạo nên trụ cột tại mặt trận Thái Bình Dương trong thời Đệ nhị Thế chiến.Vào giữa thế kỷ 20, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã trở thành những lý thuyết gia và chuyên gia về chiến tranh đổ bộ từ biển. Khả năng của quân chủng phản ứng nhanh đối với các cuộc khủng hoảng vùng đã chứng tỏ rằng quân chủng có một vai trò mạnh trong việc triển khai và thực hiện chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ có khoảng trên 203.000 binh sĩ (tính đến tháng 10 năm 2009) hiện dịch và dưới 40.000 binh sĩ trừ bị. Nó là quân chủng nhỏ nhất trong các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (Tuần duyên Hoa Kỳ nhỏ hơn, khoảng 1/5 quân số của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng nó thường ngày nằm dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ). Tuy nhiên Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ lớn hơn toàn bộ lực lượng vũ trang của một số cường quốc quân sự nổi bật khác, thí dụ như nó lớn hơn lực lượng vũ trang hiện dịch của Israelhay toàn bộ Lục quân Anh. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chiếm khoảng 6% ngân sách quân sự của Hoa Kỳ. Chi tiêu cho mỗi binh sĩ thủy quân lục chiến là $20.000 ít hơn chi tiêu cho bất cứ binh sĩ nào trong các quân chủng khác. Toàn bộ lực lượng có thể được sử dụng cho cả các chiến dịch lớn và các chiến dịch thủy bộ.
Sứ mệnh lịch sử
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ban đầu được thành lập nhằm phục vụ trong vai trò của một đơn vị bộ binh trên các tàu hải quân và có trách nhiệm bảo vệ an ninh tàu và các thủy thủ bằng chiến đấu phòng vệ và tiến công trong các trận đánh chiếm tàu địch và bảo vệ các sĩ quan tàu chống các vụ nổi loạn trên tàu. Vì trách nhiệm cuối vừa nói ở trên nên khu vực của họ trên tàu thường là nằm ở giữa khu các sĩ quan và khu của các thủy thủ. Sự kiện tiến công đổ bộ từ biển đầu tiên của Mỹ xảy ra vào đầu Chiến tranh Cách mạng Mỹ khi thủy quân lục chiến giành kiểm soát kho vũ khí và bến cảng hải quân củaVương quốc Anh tại New Providence, Bahamas. Vai trò của thủy quân lục chiến tiến triển nhanh vượt trội kể từ đó. Khi tầm quan trọng trong sứ mệnh hỗ trợ hải quân ban đầu của họ giảm sút vì chủ thuyết chiến tranh hải quân thay đổi và vì sự chuyên nghiệp hóa lực lượng hải quân thì lực lượng thủy quân lục chiến tự thích nghi bằng việc tập trung vào sứ mệnh trước đây được gọi là sứ mệnh thứ hai của mình đó là tác chiến trên bờ biển. Chủ thuyết Căn cứ Tiền phương (Advanced Base Doctrine) của thế kỷ 20 đã hệ thống hóa các nhiệm vụ tác chiến của họ là ở trên bờ. Chủ thuyết này nêu ra chi tiết về việc sử dụng thủy quân lục chiến chiếm giữ các căn cứ và đảm trách các nhiệm vụ khác trên bộ để hỗ trợ các chiến dịch của hải quân. Cuối thế kỷ 19 và suốt thế kỷ 20, các phân đội thủy quân lục chiến đã phục vụ trên các tuần dương hạm, khu trục hạm, thiết giáp hạm và hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Các phân đội thủy quân lục chiến (thường thường là một trung độitrên mỗi tuần dương hạm, một đại đội trên mỗi thiết giáp hạm hay hàng không mẫu hạm) phục vụ với các nhiệm vụ truyền thống của mình: lực lượng đổ bộ của con tàu, giữ các ụ súng của tàu và đảm trách an ninh trên tàu. Các phân đội thủy quân lục chiến cũng được tăng cường với các thủy thủ trên tàu trong những vụ tiến công đổ bộ, đặc biệt là các chiến dịch tại Mexico và Caribbe đầu thế kỷ 20. Thủy quân lục chiến cũng đã phát triển các chiến thuật và kỹ thuật về tấn công đổ bộ từ biển trên các vùng bờ biển được bố phòng đúng lúc để sử dụng trong Đệ nhị Thế chiến. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, thủy quân lục chiến đã tiếp tục phục vụ trên các tàu chiến. Họ thường được giao nhiệm vụ giữ các hệ thống chống phi cơ. Các phân đội thủy quân lục chiến chỉ còn được thấy trên các thiết giáp hạm hay hàng không mẫu hạm sau thập niên 1960. Nhiệm vụ gốc của thủy quân lục chiến là đảm trách an ninh trên tàu sau cùng cũng kết thúc vào thập niên 1990 khi vũ khí hạt nhân không còn được triển khai trên các tàu và khi các thiết giáp hạm không còn phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ nữa
Đánh giá nhẫn mỹ xưa hợp kim quân đội USMC
Chưa có đánh giá nào.